Điều trị vô sinh bằng kỹ thuật 'Trưởng thành noãn trong ống nghiệm’ ở BV Mỹ Đức Phú Nhuận
IVM và những ưu điểm vượt trội
Theo các bác sĩ IVFMD, IVM (In Vitro Maturation) được biết đến với tên gọi trưởng thành noãn trong ống nghiệm - một kỹ thuật điều trị vô sinh. Noãn từ các nang noãn nhỏ trong buồng trứng của người phụ nữ được lấy ra ngoài và nuôi trưởng thành trong ống nghiệm. Sau đó, noãn được cho thụ tinh với tinh trùng của người đàn ông để tạo thành phôi. Phôi được đưa trở lại buồng tử cung hoặc được trữ lạnh cho chu kỳ chuyển phôi đông lạnh.
Cũng theo các bác sĩ IVFMD, IVM được xem là giải pháp an toàn, hiệu quả, mở ra nhiều cơ hội thành công với những cặp vợ chồng mong con. Phương pháp này có nhiều ưu điểm như: An toàn hơn cho phụ nữ, loại trừ các nguy cơ quá kích buồng trứng và các tác dụng phụ của nội tiết; Rút ngắn thời gian điều trị đáng kể so với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm thông thường, từ 2-4 tuần xuống còn 4 ngày; Giảm đáng kể (trên 90%) số lượng các mũi tiêm thuốc kích thích buồng trứng, giảm số lần tái khám, theo dõi, thử máu…; Giảm gần 50% chi phí điều trị so với thụ tinh trong ống nghiệm truyền thống.
Kỹ thuật IVM hiện nay phù hợp với các nhóm phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), nguy cơ đáp ứng quá mức với thuốc kích thích buồng trứng… Ngoài ra, IVM còn được áp dụng cho phụ nữ bị ung thư cần bảo tồn khả năng sinh sản. Đặc biệt là các ung thư nhạy cảm với nội tiết tố estrogen (một loại hormone sinh dục nữ chủ yếu do buồng trứng sản xuất và điều tiết). Vì khi kích thích buồng trứng thông thường, nang trứng càng lớn sẽ tiết càng nhiều nội tiết estrogen, khiến tình trạng bệnh diễn biến xấu hơn. Ngoài ra, với xu hướng cải tiến phương pháp điều trị để thân thiện hơn, ít sử dụng nội tiết tố hơn, IVM trong tương lai có thể mở rộng cho nhiều chỉ định khác.
Kỹ thuật IVM của IVFMD được chuyên gia quốc tế khen
Đại diện Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận chia sẻ: “Năm 2006, BS. Vương Thị Ngọc Lan và cộng sự đã bắt đầu hành trình mang IVM đến Việt Nam. IVFMD tự hào là đơn vị có thể thực hiện thường quy kỹ thuật IVM cải tiến với tỷ lệ thành công cao. Đến nay, nhóm chuyên gia về kỹ thuật IVM đứng đầu là BS. Lan đã thực hiện hơn 4.000 trường hợp IVM tại Việt Nam”.
Trong 5 năm qua có nhiều nhóm chuyên gia từ các nước như Indonesia, Malaysia, Úc, Bỉ, Đan Mạch, Mỹ, sang Việt Nam trao đổi kinh nghiệm về kỹ thuật IVM tại Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận. Kỹ thuật nhận được phản hồi tích cực từ các nhóm chuyên gia quốc tế.
Hồng Nhung