![]() |
Trần Nhân Tông là vị vua hiếm hoi trong sử Việt vừa đứng được trên hai đỉnh: đỉnh của quyền lực thế tục và đỉnh của khai sáng tinh thần. |
Trên những bậc đá phủ rêu, tiếng gió luồn qua rừng trúc như một khúc tụng cổ trên núi thiêng Yên Tử. Từ nơi đây, hơn bảy thế kỷ trước, Phật hoàng Trần Nhân Tông cất bước khai sơn, định hình tinh thần Trúc Lâm, một đạo đời do người Việt lập nên cho người Việt, gói trong hai chữ “hiệp hòa”: hòa mình với thiên nhiên, hòa mình với quốc dân, để bảo vệ non sông và mưu cầu an lạc.
“Cư trần lạc đạo”
Khi có ý định viết tuyến đề tài này, tôi đã không ngần ngại bốc máy gọi cho một người anh thân, “người thủ đền” ở Yên Tử gần hai chục năm nay. Từ một cán bộ Đoàn, anh về làm việc dưới chân Yên Tử. Qua một thời gian giác ngộ, giờ anh chỉ giới thiệu mình là cư sĩ Lê Trọng Thanh.
Trong một góc Thiền Quán, anh bày một ấm trà cùng một chồng sách về Phật hoàng, về Yên Tử. Anh tâm đắc, đăm chiêu và trải lòng khi nói về Yên Tử. Những hình ảnh mộc mạc hiện ra trong câu chuyện của anh như một người dẫn đường đầy tâm huyết.
Yên Tử hiện lên bằng một lối đi quen thuộc, chùa Cầm Thực, suối Giải Oan, đường tùng, rừng trúc. Những phiến đá xếp từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, loang rêu và ấm dấu chân người. Từ chùa Hoa Yên, chùa Một Mái rồi vắt sang dải mây ở chùa Đồng, nơi đỉnh cao nhất (1.068m) của dãy núi Yên Tử. Giữa bóng trúc sớm, tiếng chuông ngân xa, một tảng đá rêu sẫm màu bỗng hóa thành trang ký ức mở ra trước mắt.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua hiếm hoi trong sử Việt vừa đứng được trên hai đỉnh: đỉnh của quyền lực thế tục và đỉnh của khai sáng tinh thần. Ông đăng quang khi đất nước còn nguyên dấu thương tích sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất, rồi tiếp tục chỉ huy, quy tụ sức dân để làm nên hai chiến thắng 1285 và 1288, kết thúc bằng trận Bạch Đằng lừng lẫy.
Nhưng điều làm nên sự đặc biệt của ông nằm ở chỗ, sau khi củng cố cơ đồ, ông chủ động trao ngôi cho Trần Anh Tông (1293), giữ vai trò Thái thượng hoàng một thời gian, rồi rời chốn cung đình để lên non Yên Tử (1299), bước sang hành trình tu tập với hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà.
“Bước đi “rẽ dòng” ấy không phải là chối bỏ cuộc đời. Ngược lại, đó là cách ông tiếp tục hóa giải bạo lực thời chiến thành đạo lý thời bình, lấy tu để trị tâm, lấy tâm để trị quốc. Bởi trị quốc rốt cuộc không chỉ là ban hành chính sách, mà còn là gây dựng một nền đạo đức xã hội, thứ “luật mềm” vận hành trong lòng người, giữa người với người”, cư sĩ Thanh nhận định.
Trúc Lâm, ngay từ đầu, đã không phải một dòng thiền lánh đời, nó được khai sáng bởi một người từng cầm quân giữa bão táp lịch sử, nên chất nhập thế, khoan dung, thực tiễn là dòng chảy nổi bật và hằn sâu vào tâm trí người Việt qua nhiều thế kỷ.
Tôi vẫn còn nhớ như in, trong một lần may mắn được nghe Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Trụ trì chùa Hoa Yên giảng giải kinh đạo: tài sản tinh thần của Phật hoàng Trần Nhân Tông để lại chính là các lời dạy, trước tác như “Cư trần lạc đạo”, không đứng riêng như kinh sách giáo điều. Đấy là lời nhắc về một thái độ sống: sống giữa bụi trần mà giữ tâm sáng, hòa quang đồng trần, yêu nước gắn với yêu người.
Trong đời sống cộng đồng, lời dạy ấy âm thầm biến thành những chuẩn mực giản dị, biết nhường nhịn, giữ tín, trọng nghĩa, không cực đoan.
Ở tầm quốc gia, nó trở thành một cách “hóa giải” sau chiến tranh, thay vì nuôi thù hận, Trần triều ưu tiên hòa hiếu, bang giao, mở mang dân sinh. Đó là định hướng chỉ có thể xuất hiện từ một nội lực tinh thần mạnh, nội lực được tôi luyện trên con đường núi thiêng Yên Tử.
![]() |
Một buổi giảng kinh của Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Trụ trì chùa Hoa Yên dưới gốc những cây tùng cổ. |
Hoằng dương đạo giữa đời
Yên Tử không phải là một hệ thống chùa tháp hay những công trình đồ sộ. Đó là một cảnh quan linh thiêng, một chỉnh thể tự nhiên-văn hóa. Núi cao, rừng rậm, mây mù, đá xếp, suối đổ… không đứng ngoài câu chuyện tu tập mà chính là môi trường kiến tạo trải nghiệm thiền, từ thấp lên cao, từ động đến tĩnh, từ phàm đến thánh.
Ai từng bước qua con đường tùng cổ thụ, dừng ở chùa Lân, ngước nhìn tầng tầng bậc đá lên chùa Hoa Yên, rồi qua am, qua tháp, tới Ngọa Vân, nơi lưu truyền dấu tích Phật hoàng an trụ, đều cảm nhận được một hơi thở ấm áp của con đường hành hương.
Cư sĩ Lê Trọng Thanh khẳng định, chính sự tương tác giữa con người với thiên nhiên đã làm nên sức sống đặc biệt cho Trúc Lâm. Nếu với nhiều truyền thống tu học, con người phải rời đời để tìm đạo, thì ở Yên Tử, thiên nhiên đã “soạn sẵn” một giáo án, buộc người leo dốc bằng đôi chân của mình.
“Pháp môn” vì thế rất cụ thể: đi, thở, nhẫn, tỉnh. Rừng là lớp học, gió là tiếng chuông, mưa là bài thực hành. Khi bước chân đặt vào nhịp thở, không vội vàng, không phô trương.
“Khi một nhà lãnh đạo lớn có đủ dũng khí để bỏ ngôi, nhường quyền, dốc tâm cho dân sinh và đạo đức, đó là thông điệp về quyền lực: quyền lực cao nhất không nằm ở ngai vàng, mà ở khả năng tự vượt mình”
Cư sĩ Lê Trọng Thanh
Tinh thần Trúc Lâm bắt đầu ở Yên Tử nhưng không dừng trong cửa thiền. Nó mở một cánh cửa rất Việt cho Phật giáo, nhập thế, hành đạo giữa đời. Tu thân để trị quốc, thương dân mà gìn giữ non sông.
Những lời dạy tưởng như giản dị, sống thiện lương, siêng năng, tiết độ. Biết dừng trước ham muốn vô độ, biết thương người yếu thế, giữ môi sinh như giữ chính thân tâm, chính là triết lý của một xã hội muốn vững bền.
Để cụ thể hơn, cư sĩ Thanh kể về suốt quãng thời gian gần 20 năm ở Yên Tử, anh đã chứng kiến những người bản địa phân loại rác, giữ gìn rừng cổ, hay những người làm dịch vụ như anh việc đầu tiên phải học nói khẽ và cúi chào. Luôn chỉ dẫn du khách không xả rác, không khắc tên lên đá.
Khi lễ hội được tổ chức chặt chẽ, tôn trọng không gian thiêng, đó đều là những cách hoằng dương đạo giữa đời. Với anh, thiêng không phải là phép lạ, mà là kỷ cương và sự tử tế lặp lại mỗi ngày.
“Tinh thần Trúc Lâm nhập thế, khoan dung, yêu nước, hòa hợp với thiên nhiên sau hơn 700 năm vẫn còn nguyên tính thời sự. Ngày nay, trong xã hội số, cám dỗ tốc độ và đám đông dễ đẩy chúng ta vào cực đoan, vội tin, vội nổi giận, vội kết tội. Trúc Lâm nhắc rằng tu trước hết là tu lời nói và hành vi, chậm một nhịp để không làm tổn thương nhau, giữ lòng trong và năng làm việc thiện”, cư sĩ Thanh trầm tư nói.
Sách hay về xã hội
Văn minh Việt Nam - nhà dân tộc học Georges Condominas từng nhận xét tác phẩm này là “Cửa sổ để thế giới hiểu về Việt Nam”.
Sách Bàn về Quốc hội - những thách thức của những khái niệm là kết quả của cả một quá trình tích lũy và suy ngẫm của tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.